Điều trị hen phế quản

Hen hàn:

Triệu chứng:

- Thay đổi thời tiết, lạnh nhiều xuất hiện cơn khó thở ra, kèm có tiếng rên rít.

- Ho đờm trong loãng trắng có bọt.

- Ngực đầy tức như bị nghẹt, khi cố dùng sức để thở thì có tiếng kêu phát ra.

- Người lạnh, sợ lạnh, sắc mặt xanh tái, thích uống nước nóng.

- Rêu lưỡi trắng mỏng, ướt trơn.

- Mạch phù (nếu do hàn tà gây nên; mạch trầm khẩn nếu cả trong ngoài đều có hàn).

Pháp trị: ôn phế tán hàn, trừ đờm, định suyễn.

Phương dược: Tô tử giáng khí thang: tô tử, sinh khương, nhục quế, chích thảo, bán hạ, trần bì, hậu phác, tiền hồ, đương quy.

Ý nghĩa: tô tử để giáng khí hóa đàm bình suyễn chỉ ho; bán hạ, hậu phác, trần bì để khử đàm chỉ ho bình suyễn; nhục quế để ôn thận khu lý hàn, nạp khí bình suyễn; đương quy để dưỡng huyết bổ can kết hợp với quế để bổ hư ở hạ tiêu do thận không nạp khí; sinh khương để tán hàn tuyên phế; chích thảo hòa trung điều hòa các vị thuốc.

Phương huyệt: cứu tả Đại chùy, Phong trì, Phong môn, Liệt khuyết, Đản trung, Thiên đột, Phong long, Định suyễn.

Sa sâm, mạch môn để bổ dưỡng khí âmĐiều trị hen phế quảnSa sâm, mạch môn để bổ dưỡng khí âm

Hen nhiệt:

Triệu chứng:

- Khi gặp trời nóng nực thì lên cơn khó thở ra, thở mạnh thở gấp rút cảm giác ngộp.

- Ho nhiều, đàm vàng đặc đục, dẻo dính, khó khạc.

- Ngực đầy, khó thở kèm tiếng kêu phát ra.

- Lưỡi đỏ rêu lưỡi vàng nhờn.

- Mạch hoạt sác.

Pháp trị: thanh nhiệt, tuyên phế hóa đàm.

Phương dược: Tang bạch bì thang: tang bạch bì, hoàng cầm, hoàng liên, sơn chi, hạnh nhân, bối mẫu, tô tử, sinh khương

Ý nghĩa: tang bạch bì thanh phế nhiệt lợi tiểu; hoàng cầm, hoàng liên, sơn chi để thanh nhiệt ở thượng tiêu; hạnh nhân, bối mẫu, tô tử để giáng khí hóa đàm tuyên phế, sinh khương tán ngoại tà.

Ngoài ra còn thể dùng phương dược Bạch hổ thang gia hoàng cầm, chỉ thực, qua lâu; hoặc phương từ thuốc nam như mạch môn, bạc hà, lá dâu, chỉ thiên, rễ tranh, cam thảo dây.

Phương huyệt: châm tả Đại chùy, Phong trì, Phong môn, Liệt khuyết, Đản trung, Thiên đột, Phong long, Định suyễn, Khúc trì, Hợp cốc.

Hen do ẩm thực:

Triệu chứng:

- Ăn phải thức ăn không thích hợp nên có cơn hen.

- Tiếng thở như tiếng ngáy, thô ráp, mệt, cảm giác tức hơi.

- Đầy trướng ngực bụng.

- Mạch hoạt thực.

Pháp trị: tiêu thực tích.

Phương dược: dùng la bạc tử với nước cốt gừng hòa với mật ong uống.

- Tuệ Tĩnh dùng: tô tử, trần bì, nhục quế, riềng, nhân sâm. Lượng thuốc bằng nhau, dùng để chữa ho hen, thở gấp, khí nghịch bụng đau như dùi đâm.

Ý nghĩa bài thuốc: quế để ôn trung, riềng tiêu thực; sâm bổ khí; trần bì lý khí hóa đờm chỉ ho suyễn.

Thanh kim đơn: la bạc tử (sao); tạo giác thích (đốt tồn tính); chỉ thực; sinh khương; sắc uống lúc nóng.

Phế khí hư:

Triệu chứng:

- Thở gấp, đoản khí.

- Tiếng ho khẽ, yếu, tiếng nói nhỏ không có sức.

- Tự hãn, sợ gió.

- Miệng khô, mặt đỏ, hầu họng khô.

- Lưỡi hơi đỏ.

- Mạch phu nhu tế.

Pháp trị: dưỡng phế định suyễn.

Phương dược: Sinh mạch định tán gia vị: đảng sâm, mạch môn, ngũ vị tử; gia: sa sâm, bối mẫu, quế chi, huỳnh kỳ, cam thảo.

Ý nghĩa: sa sâm, mạch môn để bổ dưỡng khí âm; ngũ vị tử để thu liễm phế khí; sa sâm, bối mẫu để nhuận phế hóa đàm; quế chi, huỳnh kỳ, cam thảo để ôn ích phế khí.

Phương huyệt: cứu bổ Thái uyên, Thiên lịch, Phế du, Trung phủ, Khí hải, Đản trung, Quan nguyên, Tỳ du.

Thận khí hư:

Triệu chứng:

- Suyễn lâu ngày, thở ra dài hít vào ngắn.

- Làm việc là suyễn, vận động là thở gấp, nghỉ ngơi đỡ hơn.

- Tinh thần mệt mỏi, ra nhiều mồ hôi, thở có lúc ngắt quãng.

- Tây chân lạnh, đau lưng, ù tai.

- Mạch trầm tế.

Pháp trị: bổ thận nạp khí.

Phương dược Thận khí hoàn gia giảm: thục địa, hoài sơn, sơn thù, phục linh, trạch tả, đơn bì, nhục quế, phụ tử, nhân sâm, ngũ vị tử, phá cố chỉ.

- Ý nghĩa: thục địa, hoài sơn, sơn thù bổ thận âm; quế phụ để ôn thận dương; nhân sâm, ngũ vị tử, phá cố chỉ để ôn thận nạp khí.

Nếu có thêm triệu chứng: phù, tim đập hồi hộp, thở gấp đó là do dương quá hư thủy tràn, dùng pháp trị: ôn dương lợi thủy.

Phương dược: Chân vũ thang (thương hàn luận): phụ tử, bạch truật, bạch thược, bạch linh, sinh khương.

- Ý nghĩa: phụ tử để ôn thận tỳ, trợ dương khí; bạch linh để thẩm thấp kiện tỳ; bạch truật để kiện tỳ lợi thấp; bạch thược để liễm âm dưỡng huyết chỉ thống; sinh khương để trợ phụ tử ôn dương tán hàn.

- Phương huyệt: cứu bổ Thái uyên, Thiên lịch, Khí hải, Đản trung, Mệnh môn, Thận du, Phế du, Thái khê, Phục lưu.

Sau khi hết cơn háo suyễn, ngoài cơn suyễn có thể tập luyện Yoga khí công các bài tập về phổi, xoa bóp bấm huyệt vùng ngực, vùng lưng trên; nếu có điều kiện dùng bài thuốc bổ khí hoặc bổ phế thận.

BS.CKII. HUỲNH TẤN VŨ

(Đơn vị điều trị ban ngày - Cơ sở 3 BV. Đại học Y Dược TP.HCM)

Thìa là

Còn gọi là rau thì là; tên khoa học Anathum graveolens, họ Hoa tán Apiaceae. Cây trồng bằng hạt, lấy thân, lá làm gia vị. Cây cỏ, thân cao 60-80cm. Lá mọc so le, có bẹ xẻ thùy lông chim 3 lần. Cụm hoa tán kép gồm 5-15 tán nhỏ hoa vàng, mọc ở ngọn cành và kẽ lá. Quả và lá có tinh dầu kích thích tiêu hóa, bổ tỳ vị, thông kinh lợi tiểu lợi sữa. Thìa là được trồng khắp nơi ở nước ta, chủ yếu để lấy lá ăn nấu với cá. Làm thuốc thì dùng quả.

Trong công nghiệp hương liệu quả thìa là được dùng phối hợp với một số quả khác như mùi để làm thơm chè. Quả thìa là được dùng chữa các bệnh sau:

- Khó tiêu, chướng bụng, nôn mửa, nấc: Dùng 10g hạt sắc uống.

- Huyết áo cao, xơ vữa động mạch dẫn tới nhức đầu khó ngủ: hạt thìa là 5g giã nhỏ; sắc uống ngày 2 lần; uống liên tục nhiều ngày làm giảm cholesterol trong máu.

thì là phòng bệnh

- Viêm thận, sỏi bàng quang, sỏi thận: giã hạt thìa là 5g hãm như trà; uống 5-6 lần trong ngày.

- Ít sữa : hạt thìa là 10g sắc uống hàng ngày.

- Chữa bệnh đường hô hấp: trong trường hợp cảm lạnh, cúm, hoặc viêm cuống phổi. Dùng khoảng 60g hạt chế trong nước sôi, lọc lấy nước hòa với mật ong, chia 3 lần uống trong ngày.

- Chữa rối loạn kinh nguyệt: thì là có tác dụng kích thích và điều hòa chu kỳ kinh nguyệt. Nó làm giảm đau trong các trường hợp đau bụng kinh ở các thiếu nữ và trong các trường hợp bế kinh gây ra bởi thiếu máu, cảm lạnh hoặc do có thai, dùng 60g dịch chiết lá thì là trộn chung với 1 muỗng nước ép rau mùi tây, chia 3 lần uống trong ngày.

- Chữa hơi thở hôi: nhai hạt thì là mỗi ngày sẽ cải thiện được hơi thở, giúp hơi thở thơm tho hơn.

Lương y Minh Chánh



Đông y trị rối loạn tiêu hóa ở trẻ em

Rối loạn tiêu hóa ở trẻ em còn gọi là chứng thực tích, tích trệ, Nguyên nhân có thể do ăn uống hay có trùng tích làm ảnh hưởng đến công năng hoạt động của tỳ vị. Y học cổ truyền thường sử dụng các vị thuốc có tác dụng kích thích tiêu hóa có chứa tinh dầu, axit hữu cơ và nhóm có tác dụng làm mạnh tỳ vị điều trị căn bệnh này.

Các bài thuốc thường dùng

Trẻ có biểu hiện bụng đầy, đau, ăn kém, tiêu chảy 3 - 4 lần, phân sống, có khi nôn: Ý dĩ 6g, sơn tra 4g, trần bì 2g, mạch nha 6g. Tất cả sao vàng, tán thành bột, hòa nước ấm cho trẻ uống, ngày 2 lần.

Nếu trẻ có thêm hiện tượng sốt kèm chứng viêm nhiễm khác như ho, chảy mũi, đi tiêu nhiều lần, phân có bọt, trẻ chán ăn: Đảng sâm, hoắc hương, tía tô, ý dĩ mỗi vị 6g, trần bì, gừng khô mỗi vị 2g. Sắc cho trẻ uống lúc thuốc còn ấm chia nhỏ nhiều lần trong ngày.

Trẻ bị tiêu chảy nhiều lần kèm sốt, mất nước, thóp lõm xuống: Cát căn, kim ngân hoa 8g, tô mộc 4g, vàng đắng 4g. Sắc uống ngày 1 thang. Bài thuốc này có vị đắng, khó uống, có thể cho thêm ít quả đại táo cho dễ uống.

Các bài thuốc trị rối loạn tiêu hóa ở trẻ

Các bài thuốc trị rối loạn tiêu hóa ở trẻ: cháo rau sam; cà rốt; nước nụ vối;....

Nếu trẻ đi cầu nhiều lần, phân sống, mùi chua, biểu hiện suy dinh dưỡng, nên kiện tỳ tiêu thực cho trẻ: Đảng sâm, hoài sơn, ý dĩ mỗi thứ 6g, nhục đậu khấu, trần bì, mạch nha, hậu phác mỗi vị 4g, sắc ngày 1 thang chia nhiều lần cho trẻ uống trong ngày.

Bên cạnh các bài thuốc trên, chúng ta cũng có thể sử dụng các vị thuốc tiêu thực để chế biến thành các món ăn dinh dưỡng cho trẻ, đồng thời hỗ trợ bộ máy tiêu hóa của trẻ ngăn ngừa các rối loạn đường ruột.

- Cháo rau sam, lấy 50g rau sam tươi rửa sạch cắt thật nhỏ, vài đọt búp ổi non cắt nhỏ, gạo tẻ một nắm, vo sạch, cho vào nồi, đổ thêm nước, đun trên lửa nhỏ. Khi cháo chín và rau nhừ nêm thêm ít muối. Có thể chắt lấy nước cháo cho trẻ uống ngày 2 - 3 lần. Ăn trong 2 - 3 ngày.

- Cháo cà rốt, ô mai mơ, lấy 1 củ cà rốt nhỏ, thêm 5 quả ô mai mơ (xí muội), 1 nắm gạo tẻ, đem cà rốt rửa sạch, thái thật nhỏ, lấy cơm của quả ô mai thái nhỏ, gạo rang vàng. Tất cả cho vào nồi với 200ml nước, đun trên lửa nhỏ, cháo chín là được. Ngày ăn 2 lần lúc đói, ăn liền 2-3 ngày.

- Cháo sơn dược, lấy 1 nắm gạo tẻ, thêm 10g hoài sơn (củ mài), hạt sen 10g. Tất cả cho vào nồi, nước vừa đủ, nấu chín nhừ tán nhuyễn cho trẻ ăn trong ngày.

- Uống thêm nước nụ vối, gừng 2g. Cách làm: Nụ vối, vỏ lựu, gừng rửa sạch cho vào nồi thêm nước đun sôi kỹ, chắt lấy nước bỏ bã. Chia 3 lần uống trong ngày. Cần uống 2 - 3 ngày.

- Nước gạo rang, gạo tẻ 1 nắm đem rang vàng, cho vào nồi thêm nước đun sôi kỹ, lấy nước gạo rang pha bột cho trẻ uống, có thể dùng trong 2 - 3 ngày, khi thấy dứt các triệu chứng trên thì ngưng.

Có thể xoa bóp quanh vùng rốn để làm giảm cảm giác đầy trướng cho trẻ.

Lưu ý: Nếu điều trị cho trẻ 2 - 3 ngày bệnh không thuyên giảm cần đưa trẻ đến cơ sở y tế để khám và điều trị.

Bác sĩ Hoài Hương



Bài thuốc từ hành chữa bệnh hen

Hành tây có hai loại là hành đỏ và hành trắng. Hành tây đỏ rất giàu chất chống oxy hóa và được biết đến nhiều nhờ đặc tính chống viêm. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng hợp chất thiosulphinate có trong hành tây đỏ là thành phần chống viêm tốt nhất. Ngoài ra, hành, đặc biệtt là hành tây đỏ chứa các thành phần chống oxy hóa quercetin và anthocyanin cyanidin dưới dạng các flavonoid, giúp điều trị các bệnh dị ứng trong đó có bệnh hen.

Hành tây đỏ là một trong những biện pháp tốt nhất để điều trị bệnh hen.

hành tây trị hen

Dưới đây là cách sử dụng hành tây để trị hen:

Thành phần:

Dùng khoảng 1/2kg hành tây đỏ

Khoảng 6-8 thìa mật ong

Khỏng 300g đường nâu

Hai quả chanh

5-6 cốc nước

Phương pháp:

Đun nóng đường cho tới khi bắt đầu tan chảy. Thêm hành tây đỏ cắt nhỏ và khuấy đều. Sau đó cho thêm nước. Đun sôi cho tới khi nước chỉ còn 1/3. Để nguội và sau đó thêm nước chanh và mật ong. Để qua đêm trong một lọ thủy tinh.

Cách sử dụng:

Người lớn dùng một thìa canh (tương đương 15ml), trẻ con dùng một thìa cà phê (tương đương 5ml) trước mỗi bữa ăn khi có triệu chứng.

Bạn cũng có thể ăn hành sống hoặc nấu chín với mỗi bữa ăn.

BS Thu Vân

(Theo Boldsky)

Điều trị sốt xuất huyết bằng thuốc nam và châm cứu

Y học cổ truyền quan niệm sốt xuất huyết Dengue thuộc ôn bệnh, do nhiệt độc xâm nhập vào cơ thể gây ra. Khi phát bệnh ôn nhiệt dịch độc uất ở kinh dương minh gây sốt cao, phiền nhiệt, khát nước, mạch hồng đại, nhiệt chuyển vào dinh huyết gây xuất huyết phát ban, chất lưỡi đỏ sẫm. Bệnh nặng lên sau 3 – 4 ngày, nếu không chữa kịp thời thì nhiệt độc lấn sâu vào trong, làm cho xuất huyết phủ tạng, huyết áp hạ, mạch nhanh và có thể dẫn tới tử vong.

Giai đoạn nhiệt độc xâm phạm phần vệ (Đông y gọi là thể Ôn tà uất biểu và Tà trở mạc nguyên) tương đương với SXH độ 1 theo phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới. Biểu hiện phát sốt (ban đầu có thể kèm theo cảm giác sợ lạnh), đau đầu, đau lưng, đau mình mẩy và cơ khớp, môi khô miệng khát, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi trắng hoặc vàng mỏng, muộn hơn có thể xuất hiện triệu chứng như mặt đỏ, mắt đỏ, chân tay tê bì, ngực bụng đầy tức, nôn hoặc buồn nôn, đại tiện táo kết hoặc lỏng nát, tiểu tiện sẻn đỏ...

Lá khế.

Giai đoạn nhiệt độc xâm phạm phần khí và dinh huyết (Đông y gọi là thể Khí dinh lưỡng phiền) tương đương với SXH độ 2 theo phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới. Biểu hiện sốt cao và rất cao, môi khô miệng khát, tâm trạng bồn chồn không yên, có ban xuất huyết dưới da và niêm mạc.

Phép chữa: lấy thanh nhiệt giải độc, lương huyết chỉ huyết làm chủ.

Bài thuốc gồm các vị sau: Lá tre 60g, rễ cỏ tranh 16g, lá khế 60g, kim ngân hoa 12g, cỏ nhọ nồi 16g, cam thảo 8g. Cách dùng: Mỗi ngày sắc uống 1 thang, ngày uống 2 lần.

Nếu bệnh nhân có xuất huyết gia trắc bách diệp sao đen 12g. Sau khi uống thuốc hầu hết các bệnh nhân giảm sốt nhanh, hết đau đầu, không có xuất huyết, không khát nước và đặc biệt bệnh nhân không phải bù dịch. Ngày điều trị trung bình từ 4 đến 7 ngày.

Nếu bệnh nhân có đau đầu nhiều, sốt cao kết hợp với châm cứu. Các huyệt thường dùng: đại chùy huyết hải, hợp cốc, phong trì, khúc trì.

Dùng thủ pháp, châm tả huyệt đại chùy, huyệt phong trì không châm sâu.

Tác dụng của những huyệt trên là thanh dinh lương huyết, thanh nhiệt giải độc, ích khí sinh tân.

Sau khi châm 1 đến 2 phút bệnh nhân hạ sốt, hết đau đầu.

Vị trí huyệt:

Đại chùy: Giữa đốt sống cổ 7 và mỏm gai đốt sống lưng 1. Cách châm: châm thẳng 0,5- 1,5 tấc. Không được châm sâu hơn.

Hợp cốc: Ở chỗ lồi nhất của cơ khi ngón tay cái và ngón tay trỏ kẹp sát nhau. Cách châm: châm thẳng 0,5 đến 1 tấc.

Khúc trì: Ở chỗ lõm tại đầu ngoài nếp khuỷu. Tại điểm chính giữa đường nối huyệt xích trạch với mỏm trên lồi cầu ngoài của xương cánh tay, khi khuỷu tay hơi co lại. Cách châm: châm thẳng, sâu 0,5- 1 tấc.

Huyết hải: Cách bờ trên xương bánh chè 2 tấc về phía trên, giữa chỗ phình của cơ rộng trong. Cách xác định đơn giản: ngồi đối diện bệnh nhân, lòng bàn tay phải của thầy thuốc đặt lên xương bánh chè bên trái của bệnh nhân; huyệt sẽ nằm tại chỗ đầu mút ngón tay cái của thầy thuốc. Cách châm: châm thẳng 1-1,5 tấc.

Phong trì: Ở chỗ lõm giữa cơ ức- đòn chũm và phần trên cơ thang. Nói cách khác, ở giữa chỗ lõm thẳng phía dưới ụ chẩm và xương chũm. Cách châm: châm thẳng, mũi kim hướng về hố mắt phía đối diện, sâu 1- 1,5 tâc, không được châm quá sâu.

BS. Đỗ Minh Hiền

Bài thuốc trị chứng tâm thần không yên

Người bệnh biểu hiện nhút nhát sợ hãi, dễ kinh sợ, nằm ngồi không yên, ít ngủ hay giật mình, buồn vui thất thường. Nguyên nhân phần nhiều do kinh sợ quá mà thần chí không yên, tâm thần dao động, hồi hộp. Sợ (khủng) quá thì tổn thương thận, thận hư yếu không giao thông được với tâm khiến cho tâm hồi hộp không yên... Dưới đây là một số bài thuốc thường dùng:

Chứng tâm thần không yên “tâm kinh” mà ít ngủ hay mê: dùng bài An thần đinh chí hoàn gia giảm: phục linh 14g, phục thần 14g, viễn chí 10g, nhân sâm 12g, thạch xương bồ10g, long xỉ 14g, đơn sâm 14g. Cách dùng: Tán nhỏ làm hoàn, hoặc sắc uống. Tác dụng: trấn kinh an thần…

Viễn chí (là lá khô của cây viễn chí lá nhỏ giúp trị chứng tâm thần không yên.

Viễn chí (là lá khô của cây viễn chí lá nhỏ giúp trị chứng tâm thần không yên.

Gia giảm: Nếu tâm hay hồi hộp khó ngủ, gia táo nhân 12g, bá tử nhân 14g để trấn kinh an thần. Nếu hồi hộp nặng, trị tim hồi hộp khó ngủ, ngủ hay mơ, cơ thể suy nhược, tâm thần không yên ít ngủ hay mê, nặng ngực do đàm ứ trong, gia bán hạ 8g, trần bì 10g, trúc nhự 12g. Nếu người gầy nóng do tâm âm hư, gia huyền sâm 12g. Nếu tay chân lạnh tâm dương hư, gia hoàng kỳ 16g. Không chỉ định: người mắc chứng tâm hỏa, tâm âm hư nóng bứt rứt khó ngủ.

Chứng tâm thần không yên “tâm kinh” hồi hộp ngủ không yên: Dùng bài Trân châu mẫu hoàn: chân châu 12g, đương quy 20g, thục địa 30g, nhân sâm 12g, táo nhân 16g, bá tử nhân 20g, ngưu giác16g, trầm hương 12g, long cốt 20g, ngưu tất 14g. Cách dùng: nghiền nhỏ trộn mật làm hoàn bằng hạt ngô lấy thần sa làm áo, mỗi lần dùng 40-50 viên uống với nước kim ngân, bạc hà làm thang uống. Công dụng: Tư dưỡng âm huyết, tiềm dương, an thần… Trị tâm can âm huyết đều hư, đêm ngủ không yên, hồi hộp, chóng mặt, hoa mắt, thần trí không yên.

Gia giảm: Nếu người âm hư nội nhiệt, gia sinh địa 20g, bạch thược 14g, đơn bì 16g…. Nếu huyết ứ, gia đào nhân 12g.  Nếu khó ngủ, gia táo nhân 12g. Không chỉ định: người tâm can huyết không hư không dùng.

Chứng tâm thần không yên “tâm kinh” tim đập nhanh tăng huyết áp: dùng bài Sài hồ long cốt mẫu lệ thang gia giảm: sài hồ 12g, bán hạ 8g, phục linh 14g, quế chi 12g, nhân sâm 12g, long cốt 12g, mẫu lệ 12g, đại hoàng 6g, hoàng cầm 12g, cam thảo 4g, đại táo12g, sinh khương 12g. Cách dùng. Sắc uống. Công dụng: Ôn thông tâm dương, tiềm trấn, an thần… Trị tim đập mạnh, bồn chồn, mất ngủ, tăng huyết áp, trẻ em giật mình khóc đêm, tinh thần bất an, tim đập nhanh, mất ngủ... Ngoài ra còn chữa cảm mạo, viêm phổi, viêm túi mật, dạ dày, chứng mày đay, suyễn, tràng nhạc, viêm thận cấp tính, hư thận.

Gia giảm: Nếu người âm hư nội nhiệt, gia sinh địa 20g, đơn bì 16g… Nếu huyết ứ, gia đương quy 14g, đào nhân 12g. Nếu bụng đầy, gia trần bì 12g, chỉ xác 10g… Nếu lạnh, gia quế chi 12g. Không chỉ định: người mắc chứng tâm hỏa, nội nhiệt bứt rứt khó ngủ.

BS. Trúc Nguyên

Món ăn tốt cho bệnh tiểu đường, sỏi thận, đau dạ dày

Kê còn có tên tiểu mễ, cốc nha, là một món ăn trong 10 sở thích của người sống trường thọ. Chè kê, bánh đa kê, cháo kê thịt gà là đặc sản của nhiều địa phương. Kê có tác dụng lợi tiểu, ngừa sỏi thận, đái tháo đường và tiêu chảy; là lương thực tốt cho người đau dạ dày và mắc chứng khó tiêu, miệng hôi, tỳ vị hư nhược. Ngoài ra, kê còn là món ăn tốt cho người bị thấp khớp, làm dịu cơn đau do sinh đẻ.

Cơm kê là món ăn thích hợp cho người đái tháo đường.

Kê giàu dinh dưỡng, dễ tiêu hóa. Hạt kê chứa hydrat carbon, protein, lipid, Ca, P, Fe, các loại đường, sinh tố nhóm B. Vị ngọt mặn, tính mát; vào tỳ, vị, thận. Kê có tác dụng kiện tỳ hòa vị, bổ thận thanh nhiệt. Dùng cho người tỳ vị hư nhiệt với các biểu hiện: nôn ói ra thức ăn (phản vị), đái tháo đường, tiêu chảy...

Cháo kê, khoai lang: kê 50g, khoai lang 60g. Khoai lang gọt vỏ thái lát; kê xay bỏ vỏ; nấu cháo. Ăn bữa sáng. Món này thích hợp cho người đái tháo đường tỳ vị hư nhược.

Cháo kê: kê 200g, bột mỳ 100g, trộn đều, nấu cháo. Ăn khi đói, ngày 2 lần. Món này tốt cho người cao tuổi, tỳ vị hư nhược, ăn không tiêu, người gầy, sút cân, phiền khát.

Cháo kê trúc diệp: kê 200g, đạm trúc diệp 40-60g thái nhỏ, nấu lấy nước bỏ bã. Kê nấu với nước đạm trúc diệp thành cháo. Món này tốt cho người say nóng, cảm nắng, hồi hộp kích ứng, tim đập mạnh, giật tay chân.

Cơm kê: kê được đồ hoặc nấu thành dạng cơm xôi, ăn hàng ngày, thích hợp cho người đái tháo đường.

Cháo kê đại táo: kê 200g, đại táo 10-12 quả nấu cháo thêm đường. Món này tốt cho người già, trẻ em rối loạn tiêu hóa, ăn kém, tiêu chảy, mỏi mệt.

Xôi kê: kê đã xát vỏ (lật mễ) 250g, nấu xôi kê hoặc cơm nếp. Món này tốt cho người suy nhược cơ thể, phụ nữ sau đẻ, bệnh mạn tính dài ngày, lao phổi, trẻ em suy dinh dưỡng.

Chè kê: kê 100-150g, đường phèn vừa đủ (50g). Kê xát vỏ, nấu cháo chín cho đường vào, đánh tan, đun sôi là được. Món này tốt cho người lao động hay phòng dục quá độ gây nên người hâm hấp nóng, ho, ra mồ hôi trộm, mất ngủ.

Cháo kê hà thủ ô: kê 50g, hà thủ ô 30g, trứng gà 2 quả. Kê nấu với hà thủ ô thành cháo, cháo được gắp bỏ bã thuốc, đập vào 2 cái trứng gà, cho thêm chút đường trắng khuấy đều, cho sôi là được. Cho ăn khi đói. Dùng cho người bị thoát vị, sa tử cung, sa dạ dày trực tràng.

Kiêng kỵ: Không ăn kèm với hạnh nhân để tránh gây nôn ói, tiêu chảy.

TS. Nguyễn Đức Quang

Chữa da khô sần, ngứa ngáy bằng món canh thịt vịt mướp đắngChữa da khô sần, ngứa ngáy bằng món canh thịt vịt mướp đắngNga bất thực thảo thông mũi, giảm đau đầuNga bất thực thảo thông mũi, giảm đau đầu8 bài thuốc dân gian chữa hôi nách8 bài thuốc dân gian chữa hôi nách

Mách bạn cách trị nước ăn chân bằng cây cỏ quanh nhà

Bệnh nước ăn chân thường xảy ra rất phổ biến sau khi địa phương bị ngập, lụt, một số người phải lội nước nhiều các kẽ chân bị bợt ra, có mảng trắng lép nhép, gây ngứa, dát, đau đớn khó chịu, bị nặng nhất thường ở kẽ thứ 3 thứ 4.

​Cây phèn đen.

Đề phòng nước ăn chân trước hết chúng ta cần giữ vệ sinh: rửa chân kỹ bằng nước sạch, đặc biệt chú ý các kẽ ngón chân không để bẩn và ẩm ướt. Khi thấy các kẽ ngón chân bị ngứa đỏ, không nên gãi nhiều, móng tay sắc và bẩn có thể làm sây xước chỗ ngứa, gây nhiễm khuẩn khó chữa thêm. Bạn đọc có thể áp dụng ngay một trong số những bài thuốc dưới đây để phòng và trị nước ăn chân:

Búp ổi cho thêm một nhúm muối giã nát, xát vào kẽ chân ngày 4 - 5 lần.

Lá khoai lang giã với một nhúm muối, xát vào kẽ chân ngày 4 - 5 lần.

Lá cây chút chít giã với một nhúm muối, xát vào kẽ chân ngày 4 - 5 lần

Lá mướp non giã với một nhúm muối xát vào kẽ chân ngày 4 - 5 lần.

Lá lốt đun nóng xông chân, rồi ngâm rửa chân.

Lá trầu không vò nát xát vào các kẽ ngón chân, hoặc lấy lá trầu không đun sôi với nửa lít nước để nguội, cho một cục phèn chua bằng đầu ngón tay cái đánh tan. Dùng nước này rửa kỹ các kẽ ngón chân bị loét, ngứa có thể kết hợp bôi thêm các loại thuốc mỡ sát khuẩn.

Búp ổi

Lá kim ngân 1 nắm, sắc đặc với nước rồi ngâm rửa chân. Mỗi ngày làm từ 2 - 3 lần.

Rau sam tươi 50 - 100g lấy phần cây trên mặt đất, rửa sạch, để ráo nước, cắt nhỏ, giã nát, thêm chút muối ăn, trộn đều, rồi cho tất cả vào mảnh vải gạc sạch, chấm nhẹ vào nơi tổn thương, khô lại chấm. Chỗ loét khô se lại và hết ngứa.

Cây cóc mẳn 50g, rửa sạch, để ráo nước, cắt nhỏ, giã nát, thêm chút muối ăn, trộn đều, rồi cho tất cả vào mảnh vải gạc sạch, chấm nhẹ vào nơi tổn thương, khô lại chấm và lấy bã thuốc nhét vào các kẽ chân băng lại. Mỗi ngày làm một lần đến chỗ đau khô lại.

Lá chè xanh và lá phèn đen, mỗi thứ 30g, nấu nước đặc, ngâm rửa chân trong 5 - 10 phút. Rồi lấy quả cà dại hoa trắng, lá lốt, mỗi thứ 20g, giã nát, thêm ít nước, dùng bông thấm thuốc bôi vào chỗ đau.

Thuốc rắc bột phèn chua, hoằng đằng (để dùng dần): phèn chua 20g, hoành đằng 100g, cho phèn chua vào một chiếc vỏ hộp, đun lên, phèn chua sẽ chảy ra thành nước. Tiếp tục đun cho đến khi phèn chua thành một chất trắng xốp là được, đem ra tán nhỏ. Hoàng đằng thái nhỏ, tán thành bột. Trộn đều lẫn 2 thứ bột, cho vào lọ sạch nút kín dùng dần bằng cách rắc bột này vào các kẽ ngón chân khi bị ngứa loét.

BS. Nguyễn Đức Kiệt

Gừng tươi - giải pháp cho chứng biếng ăn

Xử trí khi bị côn trùng cắn

Mùa hè là mùa của rất nhiều loại côn trùng sinh sôi, nảy nở. Theo BS. Hoàng Xuân Đại, nếu không may bạn bị côn trùng cắn mà không được cứu chữa kịp thời sẽ dễ gây thương tổn cho sức khỏe nhiều khi còn nguy hiểm đến tính mạng. Dân gian có những phương pháp trị liệu có thể xử trí ban đầu khi bị côn trùng cắn bằng những dược liệu tự kiếm tại chỗ khi chưa kịp chuyển nạn nhân tới các cơ sở y tế.

Trị ong đốt:

Ong ở nước ta có nhiều loại như ong muỗi, ong vàng, ong bò vẽ, ong đất, ong bò nâu, ong mật… Nhiều khi đang phát nương rẫy chạm vào tổ ong, nhất là có thêm mùi rượu càng làm ong tấn công mạnh. Do vậy khi bị ong tấn công cần tìm mọi cách để thoát khỏi khu vực có tổ ong. Nếu vẫn bị ong đốt có thể sử dụng một trong các cách sau đây.

- Dùng vôi tôi (vôi ăn trầu) bôi vào nơi ong đốt. Hoặc lấy hạt và lá quất hồng bì giã nhuyễn đắp vào vết ong đốt. Cũng có thể lấy củ ráy dại cắt ngang một lát mỏng xát vào chỗ ong đốt hoặc lấy lá, dây, củ cây chìa vôi giã nhuyễn đắp vào nơi ong đốt.

Rết cắn:

Dùng một trong các cách sau: lấy tỏi giã nát đắp vào nơi rết cắn rất nhanh khỏi đau nhức; Lấy rau sam rửa sạch giã nhỏ đắp vào vết thương. Lấy hạt vừng (mè) giã nhỏ đắp vào. Lấy củ cỏ gấu giã nhỏ đắp vào. Lấy lá bạc hà 1 nắm giã nhỏ đắp vào rất tốt. Lấy quả ngô ở ngọn cây giã nát đắp vào. Lấy hột mướp đắng (khổ qua) giã nhỏ cho vào mồm nuốt nước từ từ, sau đó bã đắp vào nơi rết cắn; hoặc dùng mướp đắng giã nát tẩm giấm đem đắp vào, cũng có thể ngậm nuốt nước từ từ rồi lấy bã đắp vào càng hiệu nghiệm. Dùng cọng khoai môn, tước bỏ vỏ, giã nhuyễn rồi trộn với cặn dầu dừa và vôi tôi đắp vào rất nhanh khỏi.

Ngoài ra lấy rau húng chanh (rau tần dày lá) rửa sạch giã nhuyễn trộn ít muối ăn đắp vào.

Tỏi chữa rết cắn rất hiệu quả.

Tỏi chữa rết cắn rất hiệu quả.

Ve cắn:

Không tự ý rứt nó ra vì như vậy răng ve sẽ gãy còn lại gây đau buốt thậm chí còn kéo theo rách xước cả da thịt. Vậy cần dùng một trong các cách sau nhằm làm con ve tự nhả ra. Đó là lấy nước điếu đặc chấm vào miệng ve, nó sẽ nhả ra rơi xuống. Cũng có thể lấy que thép nung nóng dí vào con ve nó cũng nhả ra và rơi xuống, sau đó lấy vôi tôi xát vào nơi ve cắn.

Trường hợp trót rứt con ve ra, răng ve gãy còn lại trong da thịt gây đau nhức phát sốt. Như vậy cần lấy thuốc lào tẩm nước điếu đặc rồi đắp vào nơi ve cắn băng giữ. Đồng thời dùng bài thuốc gồm ké đầu ngựa 20g, vòi voi 20g, cỏ chỉ thiên 20g, bồ công anh 40g, rửa sạch, sắc lấy nước đặc chia 2 lần uống trong ngày và dùng như vậy đến khi khỏi hẳn mới thôi.

Bọ nẹt và sâu róm:

Không may chạm da vào bọ nẹt hay sâu róm làm đau có thể sinh ngứa và tấy đỏ. Cần lấy ngay tóc rối xát vào nơi sâu róm chạm, hoặc lấy một nắm xôi hay cơm lăn đi lăn lại nhiều lần nơi da chạm vào nhằm làm lông của chúng dính hết vào cơm mà hết đau. Sau đó lấy rau má, rau khoai lang, khoai sọ mỗi thứ 1 nắm giã nhỏ mà xát vào chỗ ngứa. Cũng có thể bắt con bọ nẹt mổ lấy ruột xát vào nơi đau cũng khỏi.

Giời leo:

Viêm da do loại côn trùng này cần phân biệt với zona (là do virut). Biểu hiện thường thấy trên da có những mụn nhỏ li ti và đau rát. Kinh nghiệm dân gian lấy gạo sống 1 nắm giã nhỏ trộn ít nước vừa nhão đắp vào nơi đau. Khi gạo nơi đắp khô lại nhỏ them chút nước vo gạo vào. Cũng có thể lấy đậu xanh một nắm giã nhỏ trộn với nước cơm đắp vào, khi khô lại lấy nước cơm nhỏ vào cho đậu đắp không bị khô. Hoặc lấy lá xoan leo một nắm rửa sạch giã nhỏ đắp vào, khi khô cũng cần lấy nước cốt lá xoan leo nhỏ vào để thuốc luôn được ẩm.

BS. Hoàng Xuân Đại

Phương thuốc hỗ trợ sức khỏe người thường xuyên sử dụng máy tính

Gần đây các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy, mỗi khi máy tính hoạt động khiến cho môi trường xung quanh không ngừng sinh ra ion dương và trung hòa ion âm trong không khí. Ion âm nhiều có lợi, còn ion dương nhiều lại có hại. Thời gian dài ở trong môi trường có nhiều ion dương thì những ion dương này sẽ thông qua hô hấp đi vào phổi, sau đó cùng với tuần hoàn máu đi đến mọi tế bào trong cơ thể, làm cho huyết dịch, dịch thể có nhiều tính axít, làm chậm chức năng trao đổi chất, làm cho độc tố tích tụ lại trong cơ thể, từ đó làm cho chúng ta mất ngủ, sức đề kháng giảm thấp, rối loạn nội bài tiết nhất là ở phụ nữ...

Bởi vậy hy vọng các phương thuốc dưới đây sẽ có công hiệu hỗ trợ sức khỏe cho những người hằng ngày vì công việc mà phải thường xuyên tiếp xúc với máy tính.

Trà xanh hoa hòe, hoa cúc sáng mắt: Công hiệu: thanh nhiệt sáng mắt.

- Nguyên liệu: hoa cúc 3g, hoa hòe 3g, trà xanh 3g.

- Cách làm và sử dụng: Cho 3 nguyên liệu trên vào cốc, đổ nước sôi nóng vào ngâm 5 phút, uống thay trà hằng ngày.

Đỗ đen, bột quả óc chó trị khô mắt: Công hiệu: tăng cường cơ lực của mắt, tăng cường chức năng điều tiết, cải thiện chứng mắt mệt mỏi, chữa trị khô mắt.

- Nguyên liệu: đỗ đen 500g, nhân quả óc chó 500g.

- Cách làm và sử dụng: Cho đỗ đen vào chảo rang chín, chờ nguội nghiền thành bột. Nhân quả óc chó 500g, rang cho bóc lớp vỏ lụa bên ngoài, chờ nguội rồi nghiền sền sệt như bùn. Lấy mỗi loại một thìa hòa vào ly sữa nóng, thêm một thìa mật ong. Uống vào buổi sáng thức dậy hoặc sau bữa ăn sáng. Rất hiệu quả.

Ngân hoa, bạch chỉ trị viêm lợi: Công hiệu: Trị viêm lợi, đau nhức, sưng viêm...

- Nguyên liệu: ngân hoa 15g, bạch chỉ 6g.

- Cách làm và sử dụng: Cho nguyên liệu trên vào nước sắc lấy nước uống, mỗi ngày 1 thang. Kim ngân hoa sáng mắt: Công hiệu chặn gió, thanh nhiệt.

Có thể chữa trị các chứng đau nhức, sưng phù, mắt đỏ, nhiều nước mắt...

- Nguyên liệu: kim ngân hoa 10g, xa tiền diệp 10g, bạch chỉ 10g, lượng đường trắng thích hợp.

- Cách làm và sử dụng: Cho nước vào nấu cùng với các loại trên, sau đó thêm một ít đường, uống thay trà.

BS. HOÀNG XU N

Dược thiện hỗ trợ trị viêm phế quản

Thời tiết cuối thu lập đông, trời hanh khô làm gia tăng bệnh viêm phế quản, nhất là ở trẻ em và người già. Theo Đông y, khí hậu khô hanh gây ra loại nhiệt bệnh ngoại cảm gọi là thu táo. Lúc đầu tà vào phần vệ khí, sau đó vào phần phế khí. Xin giới thiệu một số bài thuốc trị bệnh theo từng giai đoạn.

Mùa thu thời tiết hanh khô làm gia tăng bệnh viêm phế quản.

Khi tà vào phần vệ khí: Người bệnh hơi sốt, hơi sợ lạnh, nhức đầu, ra mồ hôi ít, ho khan hay ho ít đờm mà dính, mũi khô, họng khô, lưỡi đỏ, khát nước, rêu lưỡi trắng, mạch sác. Phép chữa là tân lương nhuận phế. Dùng một trong các bài thuốc:

Bài 1: tang chi 8g, hạnh nhân 16g, sa sâm 12g, bối mẫu 8g, đậu xị 8g, chi bì 8g, lệ bì 8g. Sắc uống ngày 1 thang. Tác dụng thanh tuyên táo nhiệt, nhuận phế chỉ khái. Trị ho ít đờm, họng khô khát, phế bị táo, ôn, viêm đường hô hấp trên.

Bài 2: hạnh nhân 10g, liên kiều 10g, bạc hà 4g, tang diệp 12g, cúc hoa 8g, cát cánh 10g, cam thảo 4g, lô căn 10g. Sắc uống. Trị phong ôn mới phát, ho, sốt, cảm cúm, viêm phế quản, viêm đường hô hấp cấp tính.

Giai đoạn này người bệnh nên kết hợp ăn uống các món sau:

Nước la hán hạnh nhân: la hán 1 quả, hạnh nhân 10g. La hán nghiền đập vụn, hạnh nhân giã dập, cùng sắc lấy nước, thêm chút đường uống. Ngày 1 lần sắc hãm. Dùng cho các trường hợp viêm khí phế quản, cảm mạo, ho có đờm.

Hạnh lê ẩm: hạnh nhân 10g, lê to 1 quả. Lê gọt vỏ thái lát. Cả hai thứ nấu chín, thêm chút đường phèn khuấy cho tan đều. Dùng cho bệnh nhân viêm khí phế quản cấp tính dạng viêm khô, nóng sốt, ho khan ít đờm.

Khi tà vào phần phế khí: Người bệnh sốt, ho nhiều, không đờm, suyễn, mũi họng khô, bực dọc, khát, nhức đầu, rêu lưỡi khô trắng mỏng, cạnh lưỡi và đầu lưỡi đỏ thẫm, mạch phù sác. Phép chữa là thanh phế nhuận táo chỉ khái. Dùng một trong các bài thuốc:

Bài 1: Thanh táo cứu phế thang: a giao 8g, hồ ma nhân 12g, thạch cao 12g, tang diệp 12g, cam thảo 6g, đảng sâm 16g, mạch môn 16g, hạnh nhân 12g, tỳ bà diệp (bỏ lông chích mật) 8g. Sắc uống ngày 1 thang.

Bài 2: tang bạch bì 12g, mạch môn 12g, lá tre 12g, lá hẹ 8g, sa sâm 12g, thạch cao 16g, thiên môn 12g, hoài sơn 12g. Sắc uống ngày 1 thang.

Món ăn thuốc kết hợp chữa bệnh:

Nhuận phế tán: qua lâu 1 quả bỏ hạt tán mịn, trộn với bột củ năn thành bánh, nướng chín vàng, tán bột. Cho uống mỗi lần 3g. Hòa với nước sôi thêm đường cho uống ngày 3 lần. Dùng cho trẻ em ho khan do viêm khí phế quản sốt nóng, ho gà dài ngày (bách nhật khai).

Lê hấp đường phèn, bối mẫu: lê to 1 quả, xuyên bối mẫu 3g, đường phèn 6g. Lê gọt vỏ, tách bỏ hạt, bối mẫu tán bột; cho vào cùng hầm chín cho ăn. Dùng cho các trường hợp viêm khô khí phế quản, ho ít đờm, lao phổi ho khan, ho gà, ho do dị ứng, viêm họng.

Cháo trúc lịch: nước ép tre vầu tươi 100ml, gạo tẻ 80-100g. Gạo nấu cháo, khi được cháo cho trúc lịch vào khuấy đều. Ngày làm 1 lần chia 2 lần ăn. Dùng cho các trường hợp viêm khí phế quản sốt nóng, ho đờm ít vàng dính.

Hạnh nhân ướp đường phèn: hạnh nhân 30g, đường phèn 30g. Hạnh nhân đập bỏ vỏ cứng, đường phèn nghiền đập vụn trộn đều. Sáng, chiều mỗi lần cho ăn 9g. Dùng cho các trường hợp viêm khí phế quản mạn tính, ho khan dài ngày đờm dính.

Ngoài uống thuốc và các món ăn hỗ trợ, có thể kết hợp hằng ngày châm cứu hoặc xoa bóp các huyệt: trung phủ, phế du, xích trạch, thái uyên, hợp cốc, khúc trì.

Vị trí huyệt:Trung phủ: Dưới cuối ngoài xương đòn gánh khoảng 1 tấc, hoặc giữa xương sườn 1 và 2, cách đường giữa ngực 6 tấc.Phế du: Dưới gai đốt sống lưng 3, đo ngang ra 1,5 tấc.Xích trạch: Gấp cẳng tay vào cánh tay để xác định nếp nhăn da tương ứng với khớp khuỷu, sờ vùng giữa nếp nhăn này thấy một gân to của cơ hai đầu cánh tay, huyệt nằm ở chỗ lõm cạnh bờ ngoài gân này.Thái uyên: Trên lằn chỉ ngang cổ tay, nơi chỗ lõm trên động mạch tay quay, dưới huyệt là rãnh mạch tay quay.Hợp cốc: Khép ngón trỏ và ngón cái sát nhau, huyệt ở điểm cao nhất của cơ bắp ngón trỏ ngón cái.Khúc trì: Co khuỷu tay vào ngực, huyệt ở đầu lằn chỉ nếp gấp khuỷu, nơi bám của cơ ngửa dài, cơ quay 1, cơ ngửa ngắn khớp khuỷu.

Lương y Thảo Nguyên

Bài thuốc trị viêm họng, thanh quản

Sau đây là một số bài thuốc nam rất hiệu quả trị viêm họng và thanh quản, xin giới thiệu để bạn đọc có thể tham khảo áp dụng:

Viêm họng: người bệnh có biểu hiện họng khô, đau rát, nuốt nước bọt thấy đau, niêm mạc họng bị phù nề, sung huyết, tiếng nói thô, có thể có sốt, đau đầu, nghẹt mũi chảy nước mũi, toàn thân mệt mỏi. Dùng một trong các bài thuốc:

Bài 1: kim ngân hoa 10g, liên kiều 12g, bồ công anh 16g, cát cánh 12g, mạch môn 16g, tô diệp 16g, trần bì 10g, phòng sâm 12g, hoàng bá 12g, sinh khương 4g, cam thảo 10g. Ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần.

Bài 2: huyền sâm 12g, tía tô 16g, kinh giới 16g, trần bì 10g, cam thảo 10g, đinh lăng 20g. Ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần.

Bài 3: phòng phong 12g, kinh giới 16g, xạ can 10g, cát cánh 12g, tế tân 6g, kim ngân hoa 10g, tang diệp 16g, quế chi 6g, thiên niên kiện 10g, cam thảo 10g. Ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần.

Viêm thanh quản: người bệnh có biểu hiện tiếng nói khàn hoặc mất tiếng, ho kéo dài, đau rát họng hơi thở nóng. Nguyên nhân do bị nhiễm phong hàn hoặc phong nhiệt không được điều trị đúng cách, diễn biến dai dẳng dẫn đến viêm thanh quản. Phép trị là trừ phong tà, thanh yết hầu, chống viêm, tuyên phế. Dùng một trong các bài thuốc:

Bài 1: huyền sâm 12g, đan bì 10g, khương hoạt 12g, tế tân 6g, mạch môn 12g, tang diệp 16g, rau má 20g, đinh lăng 20g, cát cánh 12g, trần bì 10g, hạnh nhân 10g, bạch thược 12g, cam thảo 10g. Ngày 1 thang sắc 3 lần uống 3 lần.

Bài 2: phòng phong 12g, tế tân 6g, xạ can 10g, huyền sâm 12g, mạch môn 12g, ngũ vị 10g, thương nhĩ (sao) 16g, tang bạch bì 12g, bách bộ 10g, trần bì 12g, xuyên khung 10g, bạch chỉ 10g. Sắc uống ngày 1 thang.

Bài 3: đậu đen 10g, rượu trắng 500ml, cam thảo 30g, trần bì 20g. Đậu đen sao cho bốc khói, cam thảo để sống thái lát, trần bì sao thơm. Cho các dược liệu vào bình sành, đổ 500ml rượu, đậy nắp thật kín rồi đem chôn xuống đất trong 45 ngày. Sau đó mở bình lấy rượu để sử dụng. Ngày uống 30 -35ml chia làm nhiều lần, mỗi lần từng ít một. Công dụng: trừ phong, tuyên thông phế khí chống viêm, lợi yết hầu.

Lương y Đình Thuấn

Cách dùng lộc nhung chữa bệnh

Lộc nhung là sừng non chưa bị xương hóa và mọc lông nhung dày đặc của con đực loài hươu sao hoặc hươu ngựa. Khi dùng làm sạch lông, thái miếng mỏng ngâm rượu hoặc sấy khô bảo quản dùng dần. Theo Đông y, lộc nhung tính ôn, vị ngọt, mặn, lợi về kinh can, thận. Có tác dụng bổ thận, ích huyết, giải độc cơ thể. Trong y học hiện đại, thuốc từ nhung hươu có tác dụng tăng cường thể lực, nâng cao sức khỏe, cải thiện giấc ngủ. Nhung hươu có thể làm tăng lượng hồng cầu; dùng với liều lượng vừa phải có tác dụng trợ tim; thúc đẩy quá trình tái sinh vết thương ngoài da, xương gãy mau liền...

Bột lộc nhung tăng cường sức khỏe: Lộc nhung 200g, nghiền thành bột mịn. Ngày uống 1 lần, mỗi lần 1-3g. Dùng cho các bệnh thiếu máu, nhức đầu, hoa mắt, ù tai, sức khỏe yếu.

lộc nhung

Hoàn viên lộc nhung bổ huyết: Lộc nhung 30g, hoàng kỳ 150g, long nhãn 500g. Nhung hươu đem ngâm với rượu, sấy khô, nghiền chung với long nhãn, hoàng kỳ thành bột mịn luyện với mật ong, hoàn viên. Uống bằng nước sôi ấm, ngày 2 lần, mỗi lần 10g. Dùng cho người thiếu máu, nhức đầu thể hư hàn, sợ lạnh.

Cao lộc nhung mạnh xương, phát dục: Lộc nhung 30g, đương quy 45g, hoàng kỳ 90g, nhân sâm 10g, địa hoàng 100g. Lộc nhung và nhân sâm nghiền thành bột. Địa hoàng, hoàng kỳ, đương quy: sắc lấy nước (sắc 3 lần, lấy 3 nước trộn với nhau, bỏ bã) hòa bột nhân sâm, lộc nhung vào, thêm mật ong, luyện nhuyễn thành cao. Uống ngày 2-3 lần, mỗi lần 5ml, dùng cho trẻ em còi xương, chậm lớn, phát dục kém.

Thuốc trợ dương: Lộc nhung 50g, đương qui 100g, hồng sâm 100g, hoàng kỳ 250g, dâm dương hoắc 250g, bạch thược 250g.

Lộc nhung có thể ngâm rượu cho nhuận, sấy khô rồi nghiền chung với 5 vị thuốc trên, tán bột mịn, uống ngày 2 lần, mỗi lần 5g chiêu với rượu. Chữa liệt dương, di tinh, hoạt tinh.

Rượu lộc nhung: Lộc nhung 6g, sơn dược 30g, rượu trắng 500ml.

Ngâm trong 10-15 ngày là dùng được. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 10- 20ml. Dùng cho nam giới liệt dương, hoạt tinh, đau mỏi lưng; nữ giới khó có thai, băng huyết (rong kinh, băng kinh), khí hư.

Hoặc dùng bài: Lộc nhung 20g, đông trùng hạ thảo 90g, rượu 1.500ml.

Ngâm trong 15-30 ngày là dùng được. Ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 10ml. Dùng cho người thận dương hư, liệt dương, đau lưng, ăn uống kém.

BS. ĐẶNG VĂN NAM

Cách dùng lộc nhung chữa bệnh

Lộc nhung là sừng non chưa bị xương hóa và mọc lông nhung dày đặc của con đực loài hươu sao hoặc hươu ngựa. Khi dùng làm sạch lông, thái miếng mỏng ngâm rượu hoặc sấy khô bảo quản dùng dần.Theo Đông y, lộc nhung tính ôn, vị ngọt, mặn, lợi về kinh can, thận. Có tác dụng bổ thận, ích huyết, giải độc cơ thể. Trong y học hiện đại, thuốc từ nhung hươu có tác dụng tăng cường thể lực, nâng cao sức khỏe, cải thiện giấc ngủ. Nhung hươu có thể làm tăng lượng hồng cầu; dùng với liều lượng vừa phải có tác dụng trợ tim; thúc đẩy quá trình tái sinh vết thương ngoài da, xương gãy mau liền...

Bột lộc nhung tăng cường sức khỏe: lộc nhung 200g, nghiền thành bột mịn. Ngày uống 1 lần, mỗi lần 1-3g. Dùng cho các bệnh thiếu máu, nhức đầu, hoa mắt, ù tai, sức khỏe yếu.

Hoàn viên lộc nhung bổ huyết: lộc nhung 30g, hoàng kỳ 150g, long nhãn 500g. Nhung hươu đem ngâm với rượu, sấy khô, nghiền chung với long nhãn, hoàng kỳ thành bột mịn luyện với mật ong, hoàn viên. Uống bằng nước sôi ấm, ngày 2 lần, mỗi lần 10g. Dùng cho người thiếu máu, nhức đầu thể hư hàn, sợ lạnh.

Cao lộc nhung mạnh xương, phát dục: lộc nhung 30g, đương quy 45g, hoàng kỳ 90g, nhân sâm 10g, địa hoàng 100g. Lộc nhung và nhân sâm nghiền thành bột. Địa hoàng, hoàng kỳ, đương quy: sắc lấy nước (sắc 3 lần, lấy 3 nước trộn với nhau, bỏ bã) hòa bột nhân sâm, lộc nhung vào, thêm mật ong, luyện nhuyễn thành cao. Uống ngày 2-3 lần, mỗi lần 5ml, dùng cho trẻ em còi xương, chậm lớn, phát dục kém.

Thuốc trợ dương: Lộc nhung 50g, đương qui 100g, hồng sâm 100g, hoàng kỳ 250g, dâm dương hoắc 250g, bạch thược 250g.

Lộc nhung có thể ngâm rượu cho nhuận, sấy khô rồi nghiền chung với 5 vị thuốc trên, tán bột mịn, uống ngày 2 lần, mỗi lần 5g chiêu với rượu. Chữa liệt dương, di tinh, hoạt tinh.

Rượu lộc nhung: lộc nhung 6g, sơn dược 30g, rượu trắng 500ml.

Ngâm trong 10-15 ngày là dùng được. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 10-20ml. Dùng cho nam giới liệt dương, hoạt tinh, đau mỏi lưng; nữ giới không có thai, băng huyết (rong kinh, băng kinh) khí hư.

Hoặc dùng bài: lộc nhung 20g, đông trùng hạ thảo 90g, rượu 1.500ml.

Ngâm trong 15-30 ngày là dùng được. Ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 10ml. Dùng cho người thận dương hư, liệt dương, đau lưng, ăn uống kém.

BS. Đặng Văn Nam

Hành

Cổ xưa người ta đã coi hành là thứ thuốc tốt. Trong Đông y cho rằng, hành có tính cay ôn hòa, có tác dụng giải hàn, ôn thông dương khí, giải độc... Phần hành trắng là vị thuốc chính dùng chữa trị phong hàn cảm cúm.

Hành có nhiều tên gọi là hành hoa, hành củ, hành chăm... thường được dùng làm gia vị nấu trộn và khử tanh thức ăn. Khi dùng làm gia vị trộn lẫn, hành được cắt nhỏ hoặc đập nát để chiên xào tạo mùi thơm kích thích tiết dịch vị. Hành có thể trộn tươi, cũng có thể ép chiết thành dầu hành. Hành không chỉ là thứ thực phẩm gia vị như một thứ rau xanh mà còn là một thứ thực phẩm sức khỏe bổ dưỡng không thể thiếu trong những bữa ăn. Mùi vị hăng thơm của hành có tác dụng làm át mùi tanh, ngoài ra còn làm tăng thêm mùi vị thơm, có thể phân giải chất lòng trắng trứng thành pepton (một loại chất hữu cơ có thể kháng bệnh) nâng cao được khả năng hấp thu protein của cơ thể. Thức ăn có hành còn có tác dụng giải độc, thúc đẩy dạ dày và ruột tăng khả năng tiêu hóa thức ăn, bởi thế, hành được gọi là "thực phẩm gia vị sức khỏe".

Hành là một vị thuốc dễ kiếm, dễ sử dụng.

Chữa đau đầu, nghẹt mũi: Lấy 4-5 khía hành, 20g đậu xị nhạt, 20g gừng tươi đun sôi uống.

Người cảm mạo, tưa lưỡi dùng hành nấu canh cá chép làm món khai vị hỗ trợ bữa ăn ngon dễ tiêu.

Người đau dạ dày lấy 4 gốc hành giã nát đổ nước và chút đường đỏ đun làm nước uống, mỗi ngày uống 3 lần, uống đều trong một thời gian sẽ thấy chuyển biến.

Chữa tay chân tê dại bằng cách lấy 50g hành củ, 15g gừng, 3g hồ tiêu đun thành nước uống sẽ khỏi.

Để chữa thiếu sữa cho phụ nữ sinh con, lấy hành củ 2 cây, đương quy 10g, hoàng kỳ 15g đun lên thành nước thuốc uống.

Ngoài các phương pháp chữa trị kể trên, hành còn dùng ngoài chữa:

Đau bụng hoặc khó đi tiểu tiện thì nướng hành đắp vào rốn.

Người bị ung nhọt kiểu chuỗi ở cổ, lưng đau đớn thì lấy hành củ giã dập rồi trộn với mật ong đắp lên chỗ đau có tác dụng giải độc.

Người bị viêm mũi cấp hoặc mạn tính, trước hết dùng nước muối nhạt rửa mũi, sau đó bông que chấm nước củ hành ép lau bên trong hai lỗ mũi.

Để chữa trĩ, dùng lá hành đun sôi để nguội ngâm rửa hậu môn.

Đau viêm khớp lấy giấm chua trộn hành củ đập dập đắp.

Y học hiện đại đã chứng minh, hành ngoài chất protein, mỡ, đường các loại, vitamin các loại, chất đỏ cà rốt, axit carbonic, magiê, canxi còn có vị của tỏi, dầu thực vật, êtylen... Với những thành phần phong phú này, hành còn có thể ngăn ngừa chữa trị được các bệnh lỵ, bạch hầu, nấm, kích thích chức năng miễn dịch, nâng cao khả năng kháng bệnh trong cơ thể mỗi người. Bởi vậy, thường xuyên ăn hành làm thông hô hấp, trợ tiêu hóa. Các nhà khoa học đã chứng minh được rằng, từ hành chiết lấy một chất đặc biệt ngăn ngừa được tế bào ung thư phát triển. Hành còn có thể làm nhuyễn phế quản, ngừa đông vón máu, ngăn ngừa tắc mạch, chống được bệnh về tim. Lâm sàng nghiên cứu khẳng định, người thường xuyên ăn hành các triệu chứng bệnh tim mạch như nghẽn mạch huyết quản, xơ vữa động mạch, bệnh van tim đều rất ít. Ngoài ra, nếu thường xuyên ăn hành sẽ ngăn ngừa được các loại bệnh đái tháo đường, viêm khớp, giảm nhẹ bệnh tăng huyết áp... Hành có nhiều tác dụng chữa bệnh, tăng cường sức khỏe như thế nên bữa ăn mỗi gia đình không thể thiếu hành. Miền Nghệ An, Hà Tĩnh có loại hành tăm, củ bé như hạt ngô là loại hành có giá trị cao nhất cả trong chữa bệnh và làm thực phẩm.

Hành có giá trị nhiều mặt như vậy, nên để có hành dùng trong suốt cả năm dài, cần biết cách bảo quản. Hành thích ẩm, nhiệt độ thấp. Khi thu hoạch xong buộc thành túm, để nơi mát mẻ khô ráo, xếp lá trên, củ dưới, không được tưới nước. Về mùa đông, khi hành bị đông cứng thì đừng va đập vào nó, cứ để nguyên hiện trạng, tự nó trở lại bình thường. Chính vì thế mà tục ngữ có câu: "Hành không sợ khổ luyện, chỉ sợ va đập" là như thế.

BS. Xuân Lệ

Dược thiện cho người bị thiếu máu

Thiếu máu là một hội chứng bệnh lý thường gặp do nhiều nguyên nhân gây nên, được đặc trưng bởi tình trạng giảm thiểu các tế bào máu như hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu ở các mức độ khác nhau. Khi lâm vào hội chứng này, điều đầu tiên là phải xác định cho được nguyên nhân để có biện pháp xử lý căn bản và triệt để, đồng thời cần phải tích cực điều trị triệu chứng và nuôi dưỡng hợp lý nhằm đem lại sự hồi phục nhanh chóng nhất cho người bệnh.

Cây đương quy.

Trong y học cổ truyền, thiếu máu thuộc phạm vi các chứng hư lao, huyết chứng, nội thương phát nhiệt... Tùy theo các biểu hiện bệnh lý cụ thể mà được chia thành nhiều thể bệnh như khí trệ huyết ứ, khí huyết lưỡng hư, can thận âm hư, tỳ thận dương hư và thận âm dương lưỡng hư. Về mặt trị liệu, ngoài biện pháp dùng thuốc đơn thuần theo quan điểm "biện chứng luận trị", cổ nhân còn rất chú trọng sử dụng phối hợp dược phẩm và thực phẩm để tạo thành các món ăn - bài thuốc (dược thiện) nhằm mục đích điều trị hỗ trợ và duy trì một cách tích cực. Vài ví dụ cụ thể dưới đây sẽ giúp bạn đọc hiểu thêm về vấn đề này.

Bài 1: Gan lợn 100g, vỏ lụa hạt lạc 50g, gạo nếp 50g, gừng tươi và gia vị vừa đủ. Gan lợn làm sạch thái miếng, gạo nếp đãi kỹ ngâm qua, gừng thái chỉ, hành cắt đoạn. Cho gạo nếp và vỏ lạc vào nồi ninh thành cháo, sau đó bỏ gan lợn và gừng vào đun sôi chừng 10 phút là được, chế thêm gia vị, chia ăn nóng vài lần trong ngày. Công dụng: bổ huyết dưỡng huyết, dùng cho những trường hợp thiếu máu thuộc thể huyết hư biểu hiện bằng các triệu chứng như mệt mỏi, hoa mắt chóng mặt nhiều, sắc mặt, môi, móng tay và lưỡi trắng nhợt, hay hồi hộp tức ngực, kinh nguyệt lượng ít sắc nhạt hoặc bế kinh... Trong bài, gan lợn có công năng bổ can dưỡng huyết, vỏ lạc hòa vị nhuận phế, bổ huyết chỉ huyết phối hợp với gạo nếp, gừng tươi để kiện tỳ ích vị, nâng cao năng lực hoạt động của hệ tiêu hóa và tạo cảm giác ngon miệng.

Bài 2: Sinh hoàng kỳ 20g, đương quy 10g, đẳng sâm 20g, thịt gà 100g, gừng tươi 15g, đại táo 10 quả. Thịt gà chặt miếng, gừng giã nát, các vị thuốc rửa sạch, tất cả cho vào nồi hầm nhỏ lửa chừng 2 giờ là được, chế thêm gia vị, chia ăn vài lần trong ngày. Công dụng: bổ khí dưỡng huyết, dùng cho người thiếu máu thuộc thể khí huyết lưỡng hư biểu hiện bằng các triệu chứng như đầu choáng mắt hoa, tiếng nói nhỏ yếu, khó thở nhiều, dễ hồi hộp, hay chảy máu cam và chân răng, sắc mặt và niêm mạc nhợt nhạt, chất lưỡi nhợt, mạch nhanh nhỏ. Trong bài, hoàng kỳ là vị thuốc chính có công dụng đại bổ tỳ khí và phế khí, đương quy có tác dụng bổ huyết, hai vị phối hợp với nhau giúp cho khí và huyết đều được phục hồi, thúc đẩy quá trình tái tạo các tế bào máu.

Bài 3: Hà thủ ô 50g, trứng gà 2 quả, đường đỏ vừa đủ. Đầu tiên, cho hà thủ ô và trứng gà vào nồi đun nhỏ lửa trong 30 phút, sau đó lấy trứng ra bóc bỏ vỏ rồi lại cho vào đun tiếp khoảng 60 - 90 phút là được, chế thêm đường đỏ, ăn trứng uống nước trong ngày. Công dụng: bổ can thận, ích tinh huyết, dùng cho người bị thiếu máu thuộc thể can thận hư, biểu hiện bằng các triệu chứng như đầu choáng mắt hoa, tai ù tai điếc, lưng đau gối mỏi, giấc ngủ không sâu nhiều mộng mị, di mộng tinh, tiểu đêm nhiều lần, trí nhớ giảm sút, đại tiện táo kết hoặc khó đi... Trong bài, hà thủ ô vị ngọt đắng, tính ấm, có công dụng bổ can ích thận, tăng tinh dưỡng huyết; trứng gà vị ngọt tính bình có công dụng bổ huyết, dưỡng tâm an thần, tư âm nhuận táo. Hai vị phối hợp với nhau có đủ khả năng cải thiện hội chứng thiếu máu thuộc thể can thận hư suy. Tuy nhiên, vì trứng gà chứa nhiều cholesterol cho nên những người bị rối loạn lipid máu khi dùng bài này cần có sự hướng dẫn cụ thể của thầy thuốc chuyên khoa.

Củ đương quy.

Bài 4: Nhung hươu 5g, thịt gà 100g, gừng tươi 10g. Thịt gà làm sạch chặt miếng, nhung hươu thái phiến, gừng tươi giã nát. Cho thịt gà và gừng vào nồi ninh kỹ trong 60 phút, tiếp đó bỏ nhung hươu vào rồi đun tiếp trong 120 phút, chế đủ gia vị, chia ăn vài lần. Công dụng: bổ thận dương, ích tinh dưỡng huyết, dùng cho người thiếu máu thuộc thể tỳ thận dương hư biểu hiện bằng các triệu chứng sợ lạnh, tay chân lạnh, gân cốt suy yếu, lưng đau gối mỏi, tiểu đêm nhiều lần, di tinh, hoạt tinh, liệt dương, xuất tinh sớm, khó thụ thai, mệt mỏi, đầu nặng mắt hoa, tai ù, sắc mặt nhợt nhạt, có thể có phù nhẹ chi dưới, đại tiện lỏng loãng... Trong bài, nhung hươu vị ngọt mặn, tính ấm, có công dụng ôn thận tráng dương, ích tinh tủy, bổ khí huyết; thịt gà vị ngọt, tính ấm, có công dụng ôn trung ích khí, bổ tinh dưỡng huyết. Hai vị phối hợp với nhau có tác dụng cải thiện tình trạng thiếu máu rất tốt. Nghiên cứu hiện đại đã chứng minh nhung hươu có khả năng thúc đẩy quá trình sản sinh hồng cầu và gia tăng lượng huyết sắc tố.

Bài 5: Tam thất 10g, thịt gà 150g, gừng tươi 10g. Thịt gà làm sạch chặt miếng nhỏ, tam thất thái phiến mỏng, gừng giã nát. Tất cả cho vào bát, chế đủ nước, đậy kín miệng rồi đem hấp cách thủy trong 2 giờ, nêm đủ gia vị, chia ăn vài lần trong ngày. Công dụng: hoạt huyết, dưỡng huyết, cầm máu, dùng cho người bị thiếu máu thuộc thể khí trệ huyết ứ, biểu hiện bằng các triệu chứng sắc mặt xám nhợt, hay bị xuất huyết dưới da, dễ chảy máu chân răng, chảy máu cam, phụ nữ kinh nguyệt không đều, thống kinh, kinh sắc tối và có máu cục, lưỡi có những điểm tím, toàn trạng mệt mỏi, hoa mắt chóng mặt... Trong bài, tam thất vị ngọt đắng, tính ấm, có công dụng hoạt huyết tán ứ, làm thông huyết mạch, trừ huyết cũ sinh huyết mới và cầm máu; thịt gà ôn trung ích khí, bổ tinh dưỡng huyết. Hai vị phối hợp với nhau tạo nên công năng hoạt huyết dưỡng huyết độc đáo của bài thuốc.

ThS. Hoàng Khánh Toàn